Tên di sản : Đình Làng Phù Lưu
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 166/QĐ – UBND
Giới thiệu
Đình được dựng theo hướng Nam, trên khu đất rộng, thoáng, chiều dài: 20,1m; chiều rộng 9,4m với tổng diện tích 188,98m2. Xung quanh được xây tường bảo vệ có cổng ra vào thuộc thửa đất số:
Phía Bắc giáp thửa: 435/312 và thửa 436/326
Phía Nam giáp đường Liên xã.
Phía Đông giáp đường Liên xóm.
Phía Tây giáp đường đi vào thửa số 474, 522, 554.
Cấu trúc ngôi đình:
Chạy ngang trước sân đình là trục đường chính của làng và cách xa 100m là dòng sông Mã.
Ngôi đình gồm 5 gian (bốn mái) được đặt theo hướng Nam (Mặt tiền quay về hướng có Nam), trên mảnh đất bằng phẳng, không gian rộng thoáng. Theo lạc khoản đề trên thượng lương, đình được dựng vào triều vua Tự Đức thứ 3 (1850).
Nền đình chiều dài 20,1m; chiều rộng 9,4m.
Trước kia đình còn có hậu cung (hiện tại đang còn nền móng, sân sau, nền móng hậu cung có chiều dài 4m, chiều rộng 4,6m) trước sân đình còn có vết tích của cái giếng được xây bằng gạch; trước đình có hệ thống ao đình theo tương truyền rằng đây là vết tích của dòng sông Mã trước kia, Hiện nay vết tích của ao đã được nhân dân lập lại làm sân đình.
Ngôi đình gồm 5 gian có chiều dài 20,1m; chiều rộng 9,4m; với tổng diện tích xây dựng là :188,98m2
Tính từ Đông sang Tây tường hồi đốc đông dày 0,3m. Gian thứ nhất rộng 3m
Gian thứ hai rộng 3,8m
Gian thứ ba (gian giữa): rộng 4,2m
Gian thứ tư rộng 3,8m
Gian thứ năm rộng 3m
Tường hồi tây dày 0,3m
Cấu trúc ngang thân hình gồm có hàng 6 cột: Hai hàng cột cái, 2 hàng cột quân và hàng cột hiên trước bằng đá, cột hiên sau xây gạch.
Từ giọt nước mái ngói trước đến tim cột hiện trước là: 0,35m.
Từ tim cột hiên đến tim cột quân là: 1m
Từ tim cột quan đến tim một cái là: 1,6m
Từ tim một cái tước đến tim cột cái sau là: 3,5m
Từ tim cột cái sau đến tim cột quân sau là: 1,6m
Từ tim cột quân sau đến hết tường hậu là: 0,35m
Cột cái có chiều cao: 4,75m; đường kính: 0,42m
Cột quân có chiều cao: 3,6m; đường kính: 0,39m
Chiều cao cột hiên (đá) trước cao 2,2m; vuông 0,22m x 0,22m
Chiều cao cột hiên sau xây gạch cao: 2,2m.
Kích thước chân tảng cột cái, cột quân: 0,48m x 0,48m
Hàng đá lan giai ở hiện trước bằng đá xanh rộng: 0,45m; chiều cao 0,25m, chạy suốt chiều dài hè hiên đình.
Kích thước chân tảng cột cái 0,38m x 0,38m.
Bạc đá lan giai hiên rộng 0,45m; cao 0,25m: dài 2m chạy suốt chiều dài mái hiên đình.
Như vậy ngôi đình có tổng số 24 cột gỗ (cột cái 8, cột quân 16), Cột quân bằng gỗ và đứng trên hệ thống chân tảng. Cột hiên sau trước kia được tạo dựng bằng đá xanh nhưng nay đã được thay thế bằng gạch có bát đấu bằng đá, các cột trong đình này đường kính cột cũng có tỷ lệ tương ứng với chiều cao của cột.
Kết cấu vì kèo:
Cấu trúc mặt bằng theo chiều dọc từ Đông sang Tây và ngược lại, từ Tây sang Đông theo khảo sát thực tế ngôi đình này có năm gian có kết cấu tương đối cân đối, đối xứng nhau gồm gian đầu đối xứng với gian cuối, vì 1 đối xứng với vì 6, vì 2 đối xứng với vì 5, vì 3 đối xứng với vì 4, và giống nhau cơ bản về kiểu liên kết chính trong một vì kèo là kết cấu hệ thống giá chiêng chồng rường kẻ hiên. Nhìn thẳng vào vì kèo từ ngoài hiên vào, chúng ta thấy từ cột quân đến cột hiên thực chất là một đòn bẩy, nhưng cả 2 đều có cột đỡ nên mang hình thức kẻ hiên. Bẩy hiên nay trực tiếp làm nhiệm vụ đỡ các hoành tải ở phía trên. Còn đòn bẩy ở đầu cột hiên có thêm một chức năng nữa là đỡ tàu của kết cấu mái chạy suốt chiều dài mái ngói. Phần nối giữa cột cái với cột quân ở phía trong là hệ thống kẻ chuyền được đỡ bởi xà nách gánh hệ thống mái, đầu xà nách ăn mộng vào 1 thân cột cái và đầu và cột quân.
Từ cột cái đến thượng lương được kết cấu kiểu con so chồng rường giá chiêng; trên cùng là các con rường chồng lên nhau nhưng tỷ lệ ngắn và thu hẹp lại lần theo kết cấu mái. Nó được đỡ bằng đấu trụ vuông vắn. Đầu con rường thứ nhất trên vì nóc được ăn mộng vào trụ đứng đỡ hoành tải cả mái trước và sau. Trên cùng là guốc đỡ thượng lương, điểm cuối cùng của cấu trúc để tạo nên vì kèo của ngôi đình. Trên các con rường này được các nghệ nhân thời bấy giờ tạo hoa văn trang trí bằng những bông hoa cúc cách điệu, chữ thọ thể hiện nét đẹp cho vì kèo.
Hai vì thứ nhất và vì sáu có kết cấu giống nhau gồm 4 cột quân (nhà 4 mái) được kết cấu với vì hai và 5 bằng hệ thống xà dọc và kẻ góc cheo (kẻ bắt quyết).
Hai vì 2 và 5 có kết cấu đăng đối nhau ở nóc có hổ phù.
Hai vì 3 và 4 cân đối với nhau, từ quá giang để nóc cùng chồng rường, giá chiêng liên kết giữa Cột cái với cột hiên là đường kẻ chuyền, từ cột quân qua cột hiên là kẻ bẩy chuyền.
Ở hai hồi có hệ thống bẩy hiên, Xà thượng, xà hạ, hoành tải điều chạy lượn 4 góc được gắn kết với nhau từ tàu hiện đến đầu một cái...Từ cột cái trở lên nóc chỉ có hoành tải trước sau. Do không có hàng chân cột hiên sau nên kẻ bây sau phải đè lên tường hậu làm chỗ đứng vững chắc cùng bức tường hậu đỡ toàn bộ lực mái sau. Toàn bộ rui mè, hoành đều được làm bằng gỗ. Xà đơn, xà kép trên dưới được làm bằng gỗ nhưng có hình dáng vuông vắn. Bộ mái được lợp ngói mũi hài với nhiều loại khác nhau, chứng tỏ mái đình được tu sửa rất nhiều lần.
Bức đại tự được đặt trang trọng ở gian giữa nhưng đã bị bong chữ. Bây giờ chỉ còn khung - nội dung (Thánh cung vạn tuế), bức đại tự được đặt các chữ Thánh cung vạn tuế vào từng ô nhất định và gắn chạm khắc hình rồng chầu mặt nguyệt, cá hóa long, hoa cúc cách điệu, đề tài trang trí các vì kèo, kẻ bẩy, đại tự chủ yếu là các linh vật nổi bật như: Tứ linh (long, ly, quy, phượng). Một số thú vật gần gũi với đời sống con người được linh thiêng hóa, nét chạm hết sức tinh xảo. Đặc biệt là 2 bức chạm ở hai vì 2, 5 thể hiện ở bức ván nong, 2 vì hồi nóc. Tất cả được trang trí chạm long quần hổ phục, xen lẫn là các con vật như: rùa, cá, chim, sóc; các loài hoa như: hoa cúc, lá sen; tất cả được bố trí ở nơi thoáng mát, thể hiện tính hồn nhiên của người lao động. Điều đáng quan tâm ở đây là bức chạm khắc ở gian thứ 2 và 3 vì (3, 4) người ta chạm khắc hình rồng có khúc đuôi cuộn tròn, hình thức dữ tợn, lông mày hình răng cưa, mắt lồi, trán dô, hình lân dưới dạng Lân - Long - Mã.
Tất cả những họa tiết trang trí ở vì kèo và bức ván nong làm tăng thêm tính uyển chuyển mềm mại, thể hiện nghệ thuật trang trí mang phong cách kiến trúc nghệ thuật triều Nguyễn.
Các hiện vật trong di tích:
2 rùa đá cổ.
4 bát hương đá cổ.